BẠT MẠNG: HENRY KISSINGER VÀ BI KỊCH VIỆT NAM, QUA GÓC NHÌN ROBER K. BRIGHAM

BẠT MẠNG: HENRY KISSINGER VÀ BI KỊCH VIỆT NAM, QUA GÓC NHÌN ROBER K. BRIGHAM

Robert K. Brigham là Giáo sư Lịch sử và Quan hệ Quốc tế Shirley Ecker Boskey tại Đại học Vassar . Ông là một nhà sử học chuyên nghiên cứu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ , đặc biệt là Cuộc chiến tại Việt Nam.

“BẠT MẠNG” là cuốn sách mới nhất của sử gia Brigham xuất bản năm 2018. Đây là cuốn sách Giáo sư Brigham khẳng định Henry Kissinger đã liều lĩnh và lừa dối nước Mỹ, trực tiếp khiến nước Mỹ phải trả giá trong Cuộc chiến tại Việt Nam.

Bình Book trích dịch bài phỏng vấn tác giả Robert K. Brigham ngày 26/10/2018 trên tờ Carnegie Council để bạn đọc tham khảo. Chúng ta sẽ biết thêm nhiều thông tin và góc nhìn của người Mỹ về Cuộc chiến tại Việt Nam.

Xin lưu ý quan điểm của tác giả không phải là quan điểm của Bình Book.

****

Henry Kissinger thông minh, lịch lãm và là cây bút vĩ đại, theo lời sử gia Robert Brigham. Nhưng khi nói đến Việt Nam, thói kiêu ngạo và dối trá của ông ta đã khiến tình hình trở nên tồi tệ. Kissinger đã sửa đổi báo cáo về các cuộc ném bom quân sự và lừa dối tổng thống về nội dung tại các cuộc đàm phán bí mật ở Paris. “Kissinger là nhà lý luận bám víu vào những giấc mơ hão huyền, và điều đó đã khiến nước Mỹ phải trả giá đắt.” Bài học cho ngày nay là gì?

SUZANNE NIELSEN: Rõ ràng đây không phải là cuốn sách đầu tiên của ông về Việt Nam. Ông đã thực hiện nghiên cứu thực địa sâu rộng và viết về cuộc chiến từ nhiều góc nhìn khác nhau, vì vậy tôi muốn bắt đầu bằng việc hỏi điều gì đã khiến ông muốn quay trở lại đề tài Việt Nam vào thời điểm này và thực hiện điều đó thông qua lăng kính của Cố vấn An ninh Quốc gia và sau đó là là vị Ngoại trưởng: Henry Kissinger.

ROBERT BRIGHAM: Tôi nghĩ rằng Việt Nam vẫn còn là một cái bóng kéo dài đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Tôi nghĩ tôi đã dự trù chi tiết cho công trình nghiên cứu của tôi về Việt Nam cho phần còn lại của sự nghiệp.

Về Kissinger, tờ Washington Post đã yêu cầu tôi đánh giá cuốn sách của ông có tên là Ending the Vietnam War: A History of America’s Involvement in and Extrication from the Vietnam War, thực ra chỉ là những phần rút ra từ hồi ký của ông liên quan đến Việt Nam. Ông ấy trích xuất những phần đó, ghép lại với nhau và biên tập lại một chút.

Tôi đánh giá cuốn sách khá tích cực trên tờ Post, nhưng khi đọc, tôi có ghi chú bên lề: “Tôi thấy điều này nghe không đúng lắm. Tôi muốn tìm hiểu thêm về nó.” Đọc và bình luận về cuốn sách của ông ấy đã đặt ra cho tôi rất nhiều câu hỏi mà tôi muốn trả lời.

SUZANNE NIELSEN: Có lẽ độc giả sẽ không ngạc nhiên khi thấy tựa đề cuốn sách của ông là lời phê bình sâu sắc và đa chiều về vai trò của Henry Kissinger tại Việt Nam.

Như ông đã mô tả, mục tiêu của ông ấy là đưa Bắc Việt vào bàn đàm phán thông qua sự kết hợp giữa leo thang quân sự và ngoại giao cưỡng chế, điều này sẽ thay đổi động cơ của họ, khiến họ ngồi vào bàn đàm phán và có nhiều khả năng đồng ý với các điều khoản giúp đạt được mục tiêu mà ông ta đã nêu, đó là “hòa bình trong danh dự”.

Tôi tự hỏi liệu tôi có thể đề nghị ông suy ngẫm về những gì ông coi là những thách thức cơ bản với cách tiếp cận đó, đó là việc dựa vào leo thang quân sự và ngoại giao cưỡng chế để cố gắng đưa đối thủ vào bàn đàm phán.

ROBERT BRIGHAM: Đây là Kissinger kinh điển, và cũng là Nixon kinh điển. Kissinger bước vào văn phòng cố vấn an ninh quốc gia với niềm tin tuyệt đối rằng chiến tranh sẽ kết thúc ở Paris, chứ không phải ở Sài Gòn hay Hà Nội. Ông tin rằng đàm phán để chấm dứt xung đột. Nhưng ông cũng tin rằng mình có thể thúc đẩy những cuộc đàm phán đó bằng sức mạnh quân sự và các mối đe dọa.

Ngay từ rất sớm, ông đã xây dựng một chiến lược, đôi khi có sự tham gia của tổng thống, và nhiều lần không có sự tham gia của tổng thống, trong đó ông vạch ra cái mà ông gọi là “hòa bình trong danh dự”, và hình thức “hòa bình trong danh dự” sẽ như thế nào. Điều đó có nghĩa là Nam Việt Nam có cơ hội thực tế để tồn tại sau khi Hoa Kỳ rút quân; điều đó có nghĩa là khu phi quân sự ở Vĩ tuyến 17 sẽ trở thành biên giới quốc tế được công nhận; điều đó có nghĩa là quân đội Bắc Việt sẽ rời khỏi Nam Việt Nam; điều đó có nghĩa là Lào và Campuchia sẽ bị vô hiệu hóa và quân đội Bắc Việt cũng sẽ rời khỏi đó; và điều đó có nghĩa là sẽ có một số hình thức đàm phán chính trị giữa các bên ở Nam Việt Nam mà vẫn giữ được quyền lực cho chính quyền Sài Gòn.

Ông hiểu rằng 580.000 quân Mỹ không thể đẩy Hà Nội đi quá xa được. Điều ông ấy thực sự nghĩ là, Điều tôi cần làm thông qua đàm phán là chấm dứt cuộc xung đột này trong danh dự, với điều kiện Sài Gòn có cơ hội tồn tại trên thực tế. Đó là khung hoạch định chung.

Để đạt được những mục tiêu đó, ông ấy nghĩ rằng mình phải gây áp lực quân sự. Không ai khác trong chính quyền, ngoại trừ tổng thống, nghĩ như vậy. Mọi người đều có quan điểm khác nhau về cách thực hiện chiến lược tổng thể đó. Vậy nên, về mặt chiến lược, Kissinger và các cộng sự có sự khác biệt rất lớn.

SUZANNE NIELSEN: Tuy nhiên, ông ấy liên tục gặp phải tình trạng leo thang khác nhau, dù là ở Campuchia hay Lào, hay các chiến dịch ném bom khác nhau, cùng những phản ứng dữ dội trong nước và quốc tế, cuối cùng đã định hình nên ý muốn thành công cho chiến lược của Henry Kissinger.

ROBERT BRIGHAM: Một trong nhiều điều tôi tìm hiểu được khi thực hiện cuốn sách này—các tác giả luôn tìm hiểu được rất nhiều; họ có những câu hỏi, tôi nghĩ đó là lý do tại sao họ viết sách để tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó—là Kissinger hoàn toàn không có bản năng chính trị. Thật đáng kinh ngạc. Ông ấy là nhà lý luận. Nhưng ông ấy không có bản năng chính trị, và đây là điều khiến Nixon đã nhiều lần nổi giận với ông ấy.

Để tôi kể cho cô nghe. Khi lần đầu gặp nhau để bàn về việc Kissinger gia nhập chính quyền, Kissinger và Nixon, gần như ngay lập tức, đã đồng ý rằng cơ cấu chính sách đối ngoại ở Washington đã bị xói mòn, rằng nó cần một cuộc cải tổ mạnh mẽ, một cuộc cách mạng bộ máy táo bạo. Kissinger và Nixon đều đồng ý rằng chính sách đối ngoại phải tập trung vào Nhà Trắng. Cả hai đều ghét Bộ Ngoại giao và muốn thấy nó bị gạt ra ngoài lề. Đó là lý do tại sao William Rogers, một luật sư ít tên tuổi, được chọn làm Bộ trưởng Ngoại giao.

Kissinger cũng nghĩ như vậy về Lầu Năm Góc và Bộ Quốc phòng, và Kissinger đã thực hiện cuộc cách mạng bộ máy này thay mặt Nixon. Trong khi Nixon đọc diễn văn nhậm chức, Kissinger đã gửi thư đến tất cả các đại sứ quán, nói rằng mọi chính sách đối ngoại nghiêm túc giờ đây sẽ phải thông qua văn phòng của ông ở tầng hầm Nhà Trắng chứ không phải thông qua Bộ Ngoại giao vào đúng thời điểm Nixon đọc diễn văn nhậm chức.

Vậy là đã bọn họ đã cùng nhau thực hiện một cuộc cách mạng bộ máy. Nhưng ý tưởng là sẽ từ từ, theo một cách rất bài bản và có phương pháp, đưa quân đội Mỹ trở về từ Việt Nam bắt đầu từ mùa hè năm 1969, và điều này sẽ làm dịu những lời chỉ trích trong nước, và sẽ giảm bớt áp lực cho Quốc hội trong việc thông qua các nghị quyết chấm dứt chiến tranh, đưa quân đội về nước và lập ngân sách cho cuộc xung đột. Trong suy nghĩ của Laird, đó là một chiến lược lâu dài. Nếu đưa quân đội về nước và giành được sự ủng hộ của công chúng Mỹ, rồi từ đó Quốc hội có thể tiếp tục ủng hộ, thì Quốc hội cũng có thể dễ dàng gửi thêm nhiều ngân sách và vật tư kỹ thuật đến Sài Gòn để Nam Việt có thể tự mình chống lại cộng sản.

Chiến lược này có một số lỗ hổng, nhưng xét theo hoàn cảnh – Nixon và Kissinger đã bị đối xử tệ. Tôi nghĩ họ đã tiến hành tệ, nhưng họ đã bị đối xử tệ, và đây là chiến lược của Laird. Nixon thích nó. Kissinger ghét nó. Nhưng Nixon đã làm theo vì ông thấy được lợi ích chính trị của việc này. Vì vậy, vào tháng 4 năm 1969, kế hoạch này đã được công bố, và vào mùa hè năm 1969, cuộc rút quân bắt đầu.

Đối với Kissinger, người luôn nghĩ rằng chiến tranh sẽ kết thúc bằng các cuộc đàm phán bí mật ở Paris, và những cuộc đàm phán đó thực ra đã bắt đầu từ những năm Johnson nắm quyền. Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân vào tháng 4 năm 1968, các cuộc đàm phán bí mật đã bắt đầu ở Paris. Tuy nhiên, điều Kissinger nghĩ đến là các cuộc đàm phán bí mật bên trong các cuộc đàm phán bí mật. Không ai ngoài Nixon biết các cuộc đàm phán đang diễn ra.

Cuối năm 1969, Kissinger đã gặp Lê Đức Thọ và Xuân Thủy tại một vùng ngoại ô của tầng lớp lao động ở Paris và có các cuộc đàm phán bí mật. Chính trong những cuộc đàm phán đó, Kissinger nghĩ rằng mình bị bất lợi bởi việc rút quân Mỹ. Ông nghĩ rằng đó là lợi thế lớn nhất của mình, đòn bẩy lớn nhất mà ông có thể thúc đẩy, và đó là một trong những lý do ông nghĩ rằng mình phải chuyển sang các biện pháp quân sự.

SUZANNE NIELSEN: Để tôi chia sẻ thêm về điều đó một chút. Cách tiếp cận chiến lược cơ bản này có vẻ như còn thiếu sót, nhưng một chủ đề thường gặp khác là mong muốn duy trì chính sách tập trung quyền lực tại Nhà Trắng liên quan đến tổng thống và Henry Kissinger, và trong một số trường hợp chỉ có Henry Kissinger, như ông vừa đề cập.

Tôi tự hỏi liệu ông có thể nói thêm một chút về—một số người có thể cho rằng ngoại giao cần được tiến hành bí mật bởi vì cần phải đưa ra những đánh đổi không được lòng dân chúng về mặt chính trị, nhưng rõ ràng trong cuốn sách của ông, có những tổn thất đáng kể do việc Nhà Trắng can thiệp quá nhiều đến mức Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng bị cố tình loại khỏi các cuộc họp quan trọng, và không có một quy trình liên ngành nào đáng kể. Ông có thể nói về cái giá phải trả?

ROBERT BRIGHAM: Tôi nghĩ cái giá phải trả là Nam Việt Nam, sự ủng hộ của công chúng Mỹ và dư âm của Cuộc chiến tại Việt Nam mà tất cả chúng ta vẫn còn cảm thấy, sự mất lòng tin vào chính phủ. Tôi nghĩ mọi thứ khiến Việt Nam trở thành một thảm kịch đều xuất phát từ việc không thể tạo ra một tiến trình hòa bình thành công và bền vững.

Khi chúng ta xem xét việc chấm dứt xung đột đẫm máu, chúng ta biết được từ việc phân tích tất cả các thỏa thuận hòa bình khác nhau mà chúng ta có thể có được—Đại học Ulster đã làm rất tốt việc đưa tất cả các thỏa thuận hòa bình đã từng được viết vào cơ sở dữ liệu, và khi phân tích những cơ sở dữ liệu đó, chúng ta có thể đưa ra danh sách các phương pháp hiệu quả nhất. Phương pháp hiệu quả nhất người ta thấy qua nghiên cứu là có một đội ngũ đông đảo, một cách tiếp cận toàn diện. Bạn sẽ cần rất nhiều người khác nhau với nhiều kỹ năng khác nhau để tạo ra nền hòa bình bền vững.

Trong lớp học tôi dạy, tôi phát Hiệp định hòa bình Việt Nam. Sinh viên năm hai tại Cao đẳng Vassar có thể nhận ra đây không phải là cách thức bạn đàm phán. Đây không phải là cách bạn đàm phán chút nào. Không hề có cơ chế thực thi nào được xây dựng từ trước.

Việc tập trung quyền lực vào tay một người đồng nghĩa với việc Kissinger không thể xây dựng một liên minh các đồng minh ủng hộ bên trong bộ máy hành chính quốc gia. Điều đó có nghĩa là ông ta không có ai thân tín từ Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao, và không ai có thể trình lên Quốc hội. Quốc hội không hề biết những cuộc họp bí mật này đang diễn ra. Bộ Quốc phòng cũng không hề biết. Bộ Ngoại giao cũng không hề biết. Đó không phải là cách điều hành nền dân chủ, và đó không phải là cách điều hành các cuộc đàm phán hòa bình, và tôi nghĩ Nam Việt Nam cuối cùng đã phải gánh chịu hậu quả—và cũng không ai ở Sài Gòn biết chuyện này đang diễn ra. Số phận của họ đang được Kissinger định đoạt trong một căn phòng nhỏ ở Paris, và họ không hề biết chuyện này đang diễn ra cho đến khi quá muộn.

SUZANNE NIELSEN: Tôi muốn tiếp nối quan điểm của ông về vấn đề đó. Về việc chính sách này bị cô lập và được điều hành bởi một số rất ít người, chủ yếu là Henry Kissinger và tổng thống, một bên liên quan rất quan trọng khác mà ông mô tả là hoàn toàn không tham gia—không có sự hợp tác, tham vấn tối thiểu—là chính phủ Nam Việt Nam.

Một mặt, Henry Kissinger có một nguyên tắc kiên định trong đàm phán của mình rằng chính quyền Nam Việt Nam hiện tại sẽ tồn tại dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng mặt khác, như ông mô tả trong cuốn sách của mình, ông ấy dường như không quan tâm tới việc tìm hiểu chính xác những liên minh chính trị nào, những thế lực nào đang hoạt động ở Nam Việt Nam.

Tôi tò mò muốn biết suy nghĩ của ông. Dường như ông cho rằng có lẽ sự hiểu biết đó đáng lẽ dẫn đến nền hòa bình tốt đẹp hơn, một nền hòa bình khác, và một nền hòa bình sớm hơn. Tôi tự hỏi liệu ông có thể nói về khả năng nào ở Nam Việt Nam mà Hoa Kỳ đã không theo đuổi hay không.

ROBERT BRIGHAM: Đó là một câu hỏi hay. Một trong những khám phá quan trọng đối với tôi, ít nhất là khi xem xét các tài liệu tiếng Việt và nhận ra rằng có một xã hội dân sự ở Nam Việt Nam tồn tại và muốn trở thành một tác nhân tích cực trong lịch sử của chính họ. Henry Kissinger khinh miệt hầu như bất cứ điều gì liên quan đến Việt Nam. Ông ta có một nguyên tắc chính là chính quyền Sài Gòn này phải còn nguyên vẹn bởi vì các nhà đàm phán Hà Nội cứ khăng khăng đòi Hoa Kỳ phải lật đổ chính quyền trước khi một hiệp định hòa bình có thể được ký kết tại Sài Gòn.

Kissinger đã nói không, người Mỹ sẽ không bao giờ làm điều đó. Nhưng ông ta chỉ biết ba người đứng đầu chính phủ đó. Ông ta hoàn toàn không biết điều gì khác về Nam Việt Nam. Ông ta không quan tâm đến việc tìm hiểu thêm bất cứ điều gì về Nam Việt Nam. Nếu biết, ông ta sẽ biết rằng phần lớn người Nam Việt Nam chưa thuộc phe Mặt trận Dân tộc Giải phóng (Việt Cộng) và có lẽ chưa thuộc về những người chống cộng sản và chống chính quyền Sài Gòn, tức là lực lượng thứ ba. Có một bộ phận đáng kể dân số ở đó – luật sư, bác sĩ, chuyên gia và sinh viên – có thể được huy động. Trong bất kỳ tình huống đàm phán nào khác, bạn sẽ huy động được lực lượng đó.

Nhưng đó hoàn toàn không phải là những gì đã xảy ra ở đây. Sài Gòn đã không được tham vấn về tương lai và nhu cầu của mình. Những giấc mơ chính trị của họ đã không được xem xét, và cuối cùng Hoa Kỳ đã rút quân và bỏ rơi Sài Gòn. Tôi nghĩ đây chính là thảm kịch của Việt Nam. 58.000 người Mỹ, 3,2 triệu người Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ miền Nam Việt Nam, và cuối cùng, họ đã không coi trọng điều đó. Đối với tôi, điều đó ít nhất cũng là một thảm kịch.

SUZANNE NIELSEN: Tôi xin quay lại chủ đề xuyên suốt về vai trò của Henry Kissinger trong thảm kịch đó. Ông mô tả một người đàn ông có cái tôi lớn và tham vọng lớn. Thực tế, tôi nghĩ ông lập luận rằng tính cách đó trong việc thực hiện chính sách thường dẫn đến những kết quả không phù hợp với lợi ích chung của đất nước.

Khi đọc điều đó, tôi đã suy nghĩ về cách nhìn nhận vấn đề tham vọng. Một mặt, nếu bạn không có tham vọng lớn, bạn rất khó có thể đạt được thành tựu to lớn. Mặt khác, có rất nhiều khuynh hướng tiêu cực tiềm ẩn đi kèm với tham vọng lớn. Khi nghĩ về nhân vật cụ thể đó, ông suy ngẫm như thế nào về vai trò của tham vọng trong việc công?

ROBERT BRIGHAM: Tôi đồng ý với cô. Tôi nghĩ tham vọng là một phẩm chất cần thiết trong việc công. Tôi nghĩ rằng khi bạn vượt quá giới hạn đến mức kiêu ngạo, bạn sẽ gặp rắc rối, và tôi nghĩ Kissinger đã vượt qua giới hạn đó rất sớm và thường xuyên.

Để tôi chia sẻ với cô một vài dẫn chứng. Ngay từ đầu năm 1969, Kissinger đã đến gặp tổng thống và nói: “Nếu ngài rút quân, ngài phải đưa cho tôi thứ gì đó để câu giờ cho chính quyền Sài Gòn có thể tự lực cánh sinh.” Kissinger ủng hộ việc ném bom bí mật Campuchia, và đây là điều mà Nixon từ lâu đã nghĩ là một ý tưởng hay. Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và ban tham mưu cũng cho rằng về mặt lý thuyết, đó là một ý tưởng hay.

Mel Laird không nghĩ rằng làm điều đó một cách bí mật là một ý tưởng hay. Ông cho rằng nên đến gặp công chúng Mỹ, thuyết phục Quốc hội ủng hộ, rồi mới thực hiện. Bill Rogers hoàn toàn không biết gì về việc này. Trong suốt một năm, Kissinger đã điều hành chiến dịch ném bom bí mật Campuchia mà không cho vị tư lệnh không quân biết cho đến khi bom rơi xuống đất. Đối với tôi, điều đó vượt quá ranh giới giữa tham vọng và kiêu ngạo.

Trong câu chuyện dài tập đó cũng có một số tình tiết mà tôi thấy khá đáng lo ngại. Một trong số đó là việc Kissinger dễ dàng lợi dụng điểm yếu của Tổng thống Nixon. Kissinger biết Nixon đang bất an về mặt cá nhân. Ông ta biết Nixon rất muốn thực hiện tầm nhìn chính sách đối ngoại to lớn của mình nhưng không biết làm thế nào nếu không có Kissinger, và khi Kissinger loại Rogers và Laird khỏi quá trình ra quyết định về Việt Nam tại Nhà Trắng, điều ông ta cũng làm là đến gần tổng thống hơn bằng cách nói với Nixon: “Chỉ có ông mới đủ can đảm làm điều gì đó dũng mãnh và táo bạo như ném bom Campuchia để cứu Nam Việt Nam.” Điều này luôn có lợi cho Nixon, và Kissinger đã trở nên khá thành thạo theo thời gian cho đến khi chính ông ta bắt đầu mất bình tĩnh vào cuối năm 1971. Với tôi, đây là một ví dụ điển hình.

Liệu điều đó có giá trị chiến lược không? Có, có lẽ là có. Nhưng việc Kissinger là một cố vấn an ninh quốc gia duy nhất ủng hộ chính sách được lòng tổng thống mà mọi người khác đều cho là quá liều lĩnh, rồi sau đó nói với tổng thống rằng không, ông mới là người đủ can đảm. Chuyện tương tự ở Lào, chuyện tương tự với việc thả mìn cảng Hải Phòng, chuyện tương tự với vụ ném bom B-52 ở Hà Nội năm 1972. Đây là một điệp khúc quen thuộc: không có ai khác trong đội ngũ an ninh quốc gia trực tiếp ủng hộ chính sách này ngoại trừ Kissinger và tổng thống, và Kissinger liên tục lợi dụng sự bất an của Nixon để đạt được chính sách mà ông ta muốn. Đề tài này còn nhiều dấu hỏi. Bạn có thể tranh luận về điều đó.

Nhưng về lâu dài, tôi nghĩ điều này gây bất lợi cho nền dân chủ, nhưng tôi nghĩ nó cũng ảnh hưởng đến chính sách và chiến lược ở Việt Nam bởi vì toàn bộ trò chơi của chính quyền Nixon là câu giờ cho Sài Gòn tự lực cánh sinh, cho Sài Gòn một cơ hội khả thi để tồn tại, và Kissinger nghĩ rằng những cuộc leo thang quân sự khác nhau này thực sự đang làm điều đó. Ông ta nói rằng việc xâm lược Campuchia vào tháng 4 năm 1970 đã giúp Sài Gòn có thêm 18 tháng vì nó đã phá hủy các khu bảo tồn và trại lính Bắc Việt dọc biên giới bên trong Campuchia, và việc ném bom Campuchia vào năm 1969 và 1970 đã câu giờ cho Sài Gòn.

Tôi nghĩ thực tế là ông ấy đã đẩy nhanh thời gian, chứ không phải làm chậm thời gian. Ngày 3 tháng 11 năm 1969, Nixon lên truyền hình: “Tôi sẽ đưa quân về nước. Tôi sẽ gia tăng áp lực ở đây và ở đó, nhưng chúng ta sẽ rút quân khỏi Việt Nam trong danh dự.”

Công chúng Mỹ, cử tri, đã ủng hộ điều đó. Tôi nghĩ thời gian, chiếc đồng hồ, thực sự đã chạy nhanh hơn. Từ tháng 4 năm 1970 trở đi, Quốc hội cố gắng thông qua và gần như thông qua hết tu chính án này đến tu chính án khác, Cooper-Church, Hatfield-McGovern, tất cả những nỗ lực này nhằm hạn chế sự can dự của Mỹ vào Đông Nam Á. Với tôi, đây là một ví dụ điển hình về việc Kissinger nói năng cứng rắn, tỏ ra cứng rắn, đưa ra lập trường cứng rắn và hành động cứng rắn, rồi lại tạo ra kết quả hoàn toàn trái ngược với sự tồn vong lâu dài của Nam Việt Nam.

SUZANNE NIELSEN: Trong cuốn sách và trong những điểm ông vừa chia sẻ, đúng là chúng ta không hay nghĩ rằng cố vấn an ninh quốc gia là người có chuyên môn hàng đầu về chính trị trong nước. Tuy nhiên, theo lời ông, việc Henry Kissinger không muốn nghĩ đến chính trị trong nước như cách ông ấy đã nghĩ về chiến lược bên ngoài của Hoa Kỳ, trong khi nhiều người lập luận rằng trọng tâm của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam là dư luận chính trị trong nước, đây chính là một điểm yếu chiến lược.

ROBERT BRIGHAM: Vâng. Tôi nghĩ điều đó được nêu lên rất hay. Tôi nghĩ một trong những chủ đề của cuốn sách—là chính sách ở Việt Nam luôn xoay quanh Hoa Kỳ và rất hiếm khi xoay quanh Nam Việt Nam, bất kỳ người Việt Nam nào, hay bất kỳ ai từ Campuchia hay Lào. Tất cả đều xoay quanh những cân nhắc trong nước, uy tín chính trị và thậm chí cả uy tín quốc tế, nhưng luôn có yếu tố trong nước, và điều đó cũng ảnh hưởng theo nhiều cách khác nhau.

Kissinger đặt ra mốc thời gian cho các cuộc đàm phán bí mật. Ông ta muốn đưa ra một hiệp định hòa bình cho Nixon trước cuộc bầu cử năm 1972, ngay cả sau khi Nixon nói: “Không, tôi không muốn.” Kissinger vẫn thúc đẩy, và thường đến các cuộc họp ở Paris và nói: “Chúng ta phải có hiệp định này trước ngày 15 tháng 10 để tôi có thể trình lên tổng thống. Ông ấy rất muốn.” Rồi khi xem lại các ghi chú và các cuộc đối thoại qua lại giữa Kissinger và Nixon, Nixon lại nói: “Tôi không muốn. Đó là điều cuối cùng tôi muốn.” Có một sự sai lệch trong tất cả những điều này.

Có một điểm khác mà tôi muốn đảm bảo mình đưa điều này vào, bởi vì có lẽ đó là điều quan trọng nhất mà tôi nghĩ về cuốn sách, đó là việc Kissinger đã bí mật gặp gỡ các đối tác Bắc Việt Nam hàng chục lần. Chúng tôi có bản ghi chép nguyên văn do các cộng sự của Kissinger viết, ghi chú do cộng sự của Kissinger ghi lại. Chúng tôi cũng có văn bản tiếng Việt của những cuộc họp đó. Tôi đã dịch chúng. Tôi so sánh chúng. Chúng giống nhau đến kinh ngạc.

Hiện tại, chúng ta đã có hồ sơ rất tin cậy và chắc chắn. John Carland, làm việc tại Văn phòng Sử gia thuộc Bộ Ngoại giao, vừa xuất bản một tập trong Bộ sách Quan hệ Đối ngoại, ghi lại các cuộc đàm phán giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Chúng tôi có cuốn sách đó. Cuốn sách đề cập đến một số nội dung này và bổ sung thêm một chút ở những chỗ khác. Những gì được ghi chép trong các cuộc họp bí mật này rất rõ ràng.

Điều đáng chú ý là sau mỗi cuộc họp như vậy, Nixon đều nhận được một bản tóm tắt từ Kissinger trên bàn làm việc, và những bản tóm tắt này hoàn toàn không phản ánh những gì đã được nói trong các cuộc họp, và Nixon đưa ra các quyết định chiến lược dựa trên những gì Kissinger báo cáo với ông. Những câu nói kinh điển của Kissinger về những cuộc họp này trong bản tóm tắt là: “Bắc Việt Nam cuối cùng đã sẵn sàng đàm phán”; “Đây là cuộc họp tốt nhất mà chúng ta từng có”; “Họ đang tiến rất gần đến việc đồng ý rút quân”; “Lê Đức Thọ đã nói X, Y và Z”, và mọi thứ luôn mơ hồ. Thông thường, với Kissinger, việc các đối tác của ông ta bỏ qua một cuộc tấn công là bằng chứng cần thiết cho thấy họ đang làm dịu lập trường của mình.

Sau đó, bạn xem lại bản ghi chép, và chẳng có cuộc trò chuyện nào như vậy diễn ra cả. Tôi không biết độc giả sẽ muốn đi xa đến đâu với điều đó, nhưng với tôi, việc lừa dối tổng thống Hoa Kỳ – ngay cả khi đó là Richard Nixon – lừa dối Nhà Trắng đó bằng những bản tóm tắt đàm phán khi người Mỹ đang chiến đấu và hy sinh, và tổng thống sẽ đưa ra quyết định dựa trên những cuộc trò chuyện đó, điều đó khiến tôi phải ngẫm ngợi.

Điều duy nhất có thể làm rõ vấn đề này một chút là Nixon chưa bao giờ tin tưởng nhiều vào Kissinger hay các cuộc đàm phán bí mật. Vì vậy, tôi không biết ông ta đã đưa ra chính sách gì từ đó, nhưng nếu tôi nghe nói rằng Bắc Việt Nam quan tâm đến việc rút quân chung, tôi có thể sẽ hành động theo phương án đó.

Bắc Việt – Đảng Cộng sản Việt Nam – ngay từ đầu đã không bao giờ thừa nhận quân đội của họ đang ở Nam Việt Nam vì họ không công nhận tính chính danh chính trị của Nam Việt Nam. Đối với họ, quân đội của họ không cần phải đi đâu cả; quân đội của họ đang ở trên quê nhà. Không lúc nào – tôi có thể nói điều này với sự tự tin tuyệt đối – Lê Đức Thọ hay Xuân Thủy từng ám chỉ dù chỉ một chút rằng quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ được rút khỏi Nam Việt Nam trước khi có thỏa thuận, trong khi có thỏa thuận, hoặc sau khi có thỏa thuận. Thực tế, cuối cùng Kissinger đã nhượng bộ về điểm đó và không chỉ cho phép cuộc xâm nhập vẫn tiếp diễn mà còn cho phép 10 sư đoàn bộ binh chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân đội Bắc Việt, ở lại Nam Việt Nam sau Chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa. Họ đổ hàng chục nghìn quân mới vào, và Kissinger, theo thỏa thuận trong một văn kiện, cho phép những quân lính đó ở lại đó.

Điều đó khiến Hà Nội phải nói: “Chà, điểm mấu chốt duy nhất mà chúng ta đang vướng mắc trong thỏa thuận này là chính quyền Nam Việt Nam. Chúng tôi muốn họ rút quân. Các ông cứ khăng khăng giữ họ ở lại. Nhưng giờ các ông để quân đội của chúng tôi ở lại đây, chúng tôi sẽ tự mình đưa họ ra. Các ông rút quân, rồi chúng tôi sẽ tràn vào Sài Gòn.” Và đó là thỏa thuận mà Kissinger đã ký, và đó là những gì đã xảy ra.

SUZANNE NIELSEN: Cho phép tôi nói thêm về điều đó một chút và thậm chí có thể bàn lại một chút về tiêu đề. Tiêu đề, “Bạt Mạng: Henry Kissinger và Bi kịch Việt Nam”, rõ ràng đã quy trách nhiệm rất lớn cho nhân vật Henry Kissinger. Tôi hiểu lập luận về bi kịch. Lập luận là: Liệu chúng ta có đạt được hòa bình tốt hơn nhiều vào năm 1973 so với năm 1969 không? Trong khi đó, hàng chục nghìn người Mỹ và người Việt Nam đã thiệt mạng và hàng tỷ đô la đã được chi tiêu.

Tôi vẫn muốn biết suy nghĩ của ông về việc chúng ta có thể quy cho Henry Kissinger bao nhiêu phần trách nhiệm khi Richard Nixon còn là tổng thống.

ROBERT BRIGHAM: “Bạt Mạng” là một tiêu đề tôi đã dùng cho cuốn sách. Tôi cứ nhắc lại nó vì tôi nghĩ rằng hành vi của Kissinger trong các cuộc đàm phán, việc ông ta khăng khăng leo thang ở Lào và Campuchia, việc ông ta khăng khăng thay đổi tọa độ ném bom rồi lại thay đổi báo cáo về các cuộc ném bom để trông như phi công Mỹ đang tấn công các mục tiêu ở Nam Việt Nam là một phần của việc cố tình tạo ra các báo cáo giả, rồi sau đó là việc thả mìn cảng Hải Phòng và ném bom Hà Nội sau khi họ đã có một thỏa thuận hòa bình khả thi vào tháng 10 năm 1972, tôi nghĩ tất cả những điều đó chắc chắn là “bạt mạng”.

Tôi nghĩ Henry Kissinger đã gặp bất lợi. Ông ấy nhậm chức với những bất lợi khó tin. Tôi nghĩ ông ấy đã khiến tình hình tồi tệ hơn.

Tôi nghĩ rằng vào cuối tháng 11 năm 1969, sau khi Nixon thực hiện chính sách Việt Nam hóa – không phải của Kissinger; mà là của Mel Laird và Nixon – tôi nghĩ sau bài phát biểu của Nixon, chính sách Việt Nam hóa đã có vài tháng hoạt động và đã đạt được mọi mục tiêu mà họ mong muốn.

Hãy nhìn vào các cuộc biểu tình. Sau Lệnh tạm hoãn mùa thu, Nixon đã lặp lại bài phát biểu ngày 3 tháng 11 cho Lệnh tạm hoãn chống chiến tranh vào mùa thu năm 1969. Nó diễn ra sau đó. Vào thời điểm đó, công chúng bỏ phiếu ủng hộ ông ấy. Lẽ ra bạn đã có thể đạt được một thỏa thuận ngay lúc đó.

Nếu cuối cùng bạn định đẩy Nam Việt Nam vào thế khó và cho phép 150.000 quân Bắc Việt vào, và bạn không muốn biên giới là vĩnh viễn, và bạn không gây áp lực lên Hà Nội theo bất kỳ cách nào, và việc bạn gây áp lực lên Trung Quốc và Liên Xô để can thiệp vào phía Hà Nội sẽ chẳng đi đến đâu cả—và bất kỳ ai biết điều gì đó về Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam sẽ nói với Kissinger vào năm 1969, “Điều đó sẽ không hiệu quả”—với tất cả những điều đó, tôi nghĩ ông ấy đáng bị chỉ trích rất nhiều, và tôi nghĩ rằng hành vi của ông ấy với tư cách là một nhà hoạch định chính sách trong nền dân chủ là liều lĩnh.

SUZANNE NIELSEN: Cho phép tôi hỏi ông vài câu hỏi về danh tiếng của ông ấy. Theo một cách nào đó, Tiến sĩ Henry Kissinger được biết đến như một chiến lược gia bậc thầy. Một trong những yếu tố thú vị là, như ông đã kể lại, cốt lõi chính sách của chính quyền Nixon đối với Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu tiên là Việt Nam hóa chiến tranh. Đó là cách tiếp cận của Melvin Laird, không phải của Henry Kissinger.

Có vẻ như một cuộc chiến cải tổ bộ máy cơ bản đã định hình cách tiếp cận của chính quyền. Henry Kissinger không đứng về phía chiến thắng trong cuộc tranh luận đó. Điều đó có công bằng không?

ROBERT BRIGHAM: Điều đó còn hơn cả công bằng, đó là một tuyên bố chính xác, rằng ông ấy đã thua trận chiến đó, và ông ấy mang theo những vết sẹo từ cuộc chiến chính trị đó.

Một trong những điều mà ông ấy muốn đảm bảo là Laird bị loại khỏi hầu hết mọi quyết định quan trọng về Việt Nam sau đó. Ông ấy luôn nói những điều không hay với tổng thống. Chúng tôi có một kho tàng tài liệu khổng lồ. Tôi nghĩ chúng tôi có hơn 300.000 trang các cuộc trò chuyện qua điện thoại. Thư viện Nixon vừa công bố hầu như tất cả những gì không phải là vấn đề an ninh quốc gia trong giai đoạn này, và các tài liệu của Kissinger hiện đang được lưu trữ tại Đại học Yale, cả trước và sau khi ông nhậm chức. Từ những nguồn đó – và tôi cũng có thể sử dụng các nguồn tiếng Việt – chúng ta có thể hiểu rất rõ những mối quan hệ bất ổn trong mối quan hệ này. Rõ ràng là vậy. Hết cuộc trò chuyện này đến cuộc trò chuyện khác với tổng thống, Kissinger sẽ nói những điều như: “Đừng nói với Laird. Ông ta sẽ hèn nhát”; “Đừng nói với Laird. Ông ta sẽ không ủng hộ điều đó”; “Đừng nói với Laird. Ông ta sẽ không bao giờ ủng hộ chính sách quân sự này.” Đó chính là cách chính quyền đã làm với Việt Nam.

Tôi không biết về những lĩnh vực khác. Tôi thì biết rõ về Việt Nam. Có những người khác có thể nói: “Ông biết đấy, ở Trung Đông, ông ấy đã đúng. Ông ấy đã làm đúng việc này. Ông ấy đã làm đúng việc kia”; hoặc với sự hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc bên ngoài Việt Nam. Hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc bên trong Việt Nam là một thảm họa theo nhiều cách, và nó liên quan đến Việt Nam theo nhiều cách.

SUZANNE NIELSEN: Điều đó đưa tôi đến câu hỏi tiếp theo về danh tiếng. Tôi nghĩ rằng nhiều người trong số chúng ta ở đây, nếu được hỏi, hoặc nếu chúng ta đoán trong số những người Mỹ theo dõi các vấn đề đối ngoại quan tâm, nếu có một câu hỏi được đặt ra, ai là chuyên gia chính sách đối ngoại hàng đầu của Mỹ hoặc người thông thái nhất còn sống ở Hoa Kỳ ngày nay, có lẽ cái tên Henry Kissinger sẽ xuất hiện nhiều hơn bất kỳ ai khác. Ông giải thích thế nào về sự khác biệt giữa đặc điểm cá nhân trong cuốn sách của ông và danh tiếng đáng kính đó?

ROBERT BRIGHAM: Ông ấy cũng sẽ xuất hiện trong danh sách của tôi, với tư cách là một nhà lý luận. Tôi nghĩ Henry Kissinger rất thông minh, dí dỏm, quyến rũ, và hiểu rõ về chiến lược tổng thể. Theo quan điểm của tôi, ông ấy chỉ không thực hành tốt điều đó, đặc biệt là ở Việt Nam.

Tôi nghĩ rằng phần lớn thời gian ngoài nhiệm kỳ, ông ấy đã dành cho việc viết về thời gian đương nhiệm. Không ai quan tâm đến di sản của họ hơn Henry Kissinger. Không ai trong chính phủ lại xuất bản nhiều trang về thời gian họ tại nhiệm như Kissinger, và Kissinger thật xuất sắc. Ông ấy là một cây bút tuyệt vời. Bạn kết hợp những điều đó lại với nhau—ông ấy rất quyến rũ, ai mà không muốn ngồi cạnh ông ấy trong bữa tối chứ?—và ông ấy đã hòa nhập vào các hoạt động xã hội và những nơi ông ấy cần hòa nhập. Tôi hoàn toàn hiểu điều đó.

Nhưng khi nói đến việc gần gũi với những người đang thực sự chiến đấu và hy sinh, ông ấy lại mờ nhạt. Ông ấy là một nhà lý luận bám chặt vào những giấc mơ trên lý thuyết, và tôi nghĩ điều đó đã khiến nước Mỹ phải trả giá đắt ở Việt Nam. Nó đã khiến đất nước phải trả giá đắt. Đó là điều tôi nhấn mạnh. Nếu bạn định đặt đàn ông và phụ nữ vào nguy hiểm, bạn phải nỗ lực hơn cả những gì lý thuyết của bạn có thể. Bạn phải có khả năng nhìn thẳng vào mắt bậc làm cha làm mẹ và nói, “Chúng tôi đang theo đuổi một chính sách vì lợi ích quốc gia, và chúng tôi đã đi theo con đường này, và đây là toàn bộ cuộc tranh luận mà chúng tôi đã có về điều đó, và Quốc hội đã đồng ý, và chúng tôi đã đến gặp các bạn, hãy nhớ điều đó, và các bạn đã đồng ý.” Không có điều nào trong số đó xảy ra, và trong một nền dân chủ đang hoạt động, tôi nghĩ bạn phải có những cuộc thảo luận đầy đủ và thẳng thắn như vậy.

SUZANNE NIELSEN: Thật không may, chúng ta chỉ còn khoảng bốn phút nữa. Tôi muốn dành cho ông một chút thời gian để chia sẻ những suy ngẫm cuối cùng theo hướng này, rằng thật khó để sau khi đọc xong một cuốn sách mà không suy ngẫm về những gì đang diễn ra trên thế giới. Điều gì khiến ông – và tôi biết lẽ ra tôi nên dành hơn nửa tiếng thay vì ba phút – đồng cảm? Điều gì khiến ông suy nghĩ về những điều tương tự đang diễn ra trên thế giới ngày nay?

ROBERT BRIGHAM: Tôi rất lo lắng bất cứ khi nào chúng ta tập trung quyền lực quá mức và không cho phép bộ máy an ninh quốc gia hoạt động theo đúng cách mà nó cần phải làm.

Đối với tôi, thảm kịch Việt Nam và những bài học từ Cuộc chiến tại Việt Nam cho thấy mối nguy từ việc cho phép quyền lực tập trung vào tầng hầm Nhà Trắng. Bạn muốn cả ba nhánh, vốn là những nhánh đối địch nhau một cách có chủ đích.

Vị trí cố vấn an ninh quốc gia mà Kissinger nắm giữ cho đến khi trở thành ngoại trưởng, cũng là người duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ kiêm nhiệm cả hai chức vụ cố vấn an ninh quốc gia và ngoại trưởng. Điều đó không nên xảy ra. Nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao là tìm ra giải pháp ngoại giao cho những vấn đề khó khăn nhất của thế giới. Nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng là lắng nghe các chỉ huy dân sự và đưa ra các giải pháp quân sự cho những vấn đề khó khăn nhất của thế giới. Nhiệm vụ của cố vấn an ninh quốc gia là hòa giải căng thẳng tự nhiên đó và đưa ra lời khuyên cho tổng thống.

Khi bạn loại bỏ hai yếu tố đó khỏi quá trình ra quyết định an ninh quốc gia và chỉ tham vấn tổng thống, điều đó không tốt cho nền dân chủ, và tôi nghĩ những điều không tốt cho nền dân chủ cũng không tốt cho người dân Mỹ, và rất nhiều người Mỹ đã phải trả giá, và rất nhiều người Việt Nam đã phải trả giá và tiếp tục phải trả giá. Nếu bạn nghĩ rằng cuộc chiến này đã kết thúc, hãy đến Việt Nam hoặc đến Quận Cam. Nó vẫn còn hiển hiện mạnh mẽ. Ngay cả ở Washington, nó vẫn đang phủ chiếc bóng đen dài.

SUZANNE NIELSEN: Thưa quý vị, xin hãy cùng tôi cảm ơn Giáo sư Robert Brigham vì cuốn sách tuyệt vời của ông và những chia sẻ của ông tại đây tối nay.

ROBERT BRIGHAM: Cảm ơn quý vị.

#bạt_mạng

#henry_kissinger

#robert_brigham

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *