CON NGƯỜI TA LÀM GÌ TRÊN CON TÀU CHẾT KHI KHÔNG CÒN GIẤY TỜ, KHÔNG QUỐC TỊCH VÀ KHÔNG XU DÍNH TÚI?

“Bị kẹt trên con tàu chết không xuồng cứu sinh, bọn họ chỉ muốn anh ta biến đi —bao thách thức ập đến với con người không quốc tịch không xu dính túi.”

Chẳng biết “Traven” là bút danh hay danh tính của tác giả, tới nay vẫn chưa ai biết. Đây có thể là một người Đức vô chính phủ sống tại Mexico. CON TÀU CHẾT — xuất bản năm 1926 — kể về những “thành tựu” của Gerard Gales, thủy thủ người Mỹ bị mắc kẹt ở Antwerp mà không có hộ chiếu hay giấy tờ tùy thân, và bị quan chức cùng lực lượng cảnh sát truy đuổi khi anh bị đẩy từ nước này sang nước khác. Không ai muốn chứa chấp và không ai muốn giúp, họ chỉ muốn anh ta biến đi.

Toàn bộ đám cảnh sát đều nhìn chằm chằm như thể họ nghĩ tôi là kẻ giết người chưa bị treo cổ và đã trốn thoát. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ rằng mình sẽ bị treo cổ và tất cả bọn họ chỉ đang chờ đao phủ, người lúc này không thấy đâu cả vì anh ta đã đi đâu đó dự đám cưới. Ý nghĩ mình sẽ bị treo cổ đó, mỗi phút mỗi giây càng hằn sâu trong tôi.”

Phần đầu cuốn sách nói về những thách thức dành cho con người không quốc tịch và không xu dính túi đang cố gắng vô vọng với bộ máy nhà nước quan liêu. Gale phải chịu phụ thuộc vào đám công chức, những kẻ không thể tìm ra cách giúp đỡ gã đàn ông không có chút tài sản, lại còn thiếu “giấy tờ” quan trọng.

Nói về một trong số nhiều viên chức mà anh kiên nhẫn giải thích hoàn cảnh của mình: “Tôi có cảm giác rằng, nếu một ngày nào đó ông ta không còn đến văn phòng vào đúng giờ này trong buổi sáng để làm việc hoặc ngồi đó đến đúng giờ kia vào buổi chiều, ông ta sẽ chết trong vòng sáu tuần, tự cho mình là kẻ thất bại.

Ngoài việc chỉ trích bộ máy quan liêu, Traven còn phơi bày tình trạng bất bình đẳng giàu nghèo bởi vì nhân vật của chúng ta chứng kiến ​​đám người giàu có, không giấy tờ, dễ dàng lái cả hệ thống và làm mới hộ chiếu bị mất mà không gặp vấn đề gì. Dĩ nhiên, anh thậm chí chẳng còn đủ tiền ăn ở vì không đâu chịu tuyển dụng nếu thiếu giấy tờ.

Nhưng bằng cách nào đó, trước khi tôi kịp nhận ra cảm giác tuyệt vời khi cầm trên tay mấy đồng lẻ, nó đã biến mất. Chỉ những người nhiều tiền mới học được cách trân trọng giá trị thực sự của đồng tiền, bởi vì họ có thời gian để tìm hiểu. Chứ ngược lại, làm sao những kẻ không xu dính túi, hiểu được ý nghĩa thực sự của tiền bạc? Nó nằm trong tay họ quá chóng vánh đến nỗi họ không có cơ hội để thấy nó có ý nghĩa gì. Thế mà ai đó còn rao giảng rằng chỉ có người nghèo mới biết giá trị của đồng xu. Chuyện bất đồng quan điểm này là nguyên nhân dẫn đến phân biệt giai cấp.”

Gale bị truy đuổi qua nhiều quốc gia, luôn đương đầu với số phận của mình trong nỗi hoang mang và chăm chăm tìm cái cho vào bụng.

“Tôi nghĩ tới nỗi kinh hoàng khi bị bắn, bị treo cổ, bị điện giật, bị siết cổ, bị chặt đầu, bị dìm nước, hoặc bị giết bằng bất kỳ phương tiện nào mà người ta sử dụng để giết chết những người bị kết án — tôi nghĩ nỗi kinh hoàng đó không phải là chính cuộc hành quyết, mà là bữa tối hà tiện cuối cùng người ta có được vào đêm hôm trước.”

Anh tìm thấy sự an ủi tạm thời ở Tây Ban Nha, khi đó là thiên đường dành cho những người vô chính phủ, trước khi đưa ra quyết định làm thay đổi phần đời còn lại của mình và nửa sau cuốn sách. Anh gia nhập thủy thủ đoàn Yorikke, một con tàu chết —con tàu cũ nát đến mức nó đáng giá với chủ tàu vì được định giá bảo hiểm quá cao nếu bị chìm hơn là giá trị khi còn nổi của nó. Nhưng Yorikke không chỉ là cỗ quan tài nổi được bảo hiểm quá cao đang chờ thời, nó còn chất chứa đám thủy thủ đoàn bị bóc lột tàn tệ.

Chính trong phần sau của cuốn sách, Traven tập trung sâu hơn vào thói đạo đức giả và tàn bạo của chủ nghĩa tư bản, nơi nhìn chung người lao động vừa làm vật hy sinh lại vừa chống đỡ cho cả hệ thống. Trên con tàu chết, Gale ngay lập tức phải đối mặt với công việc nguy hiểm và không bao giờ kết thúc với các nồi hơi.

Người ta nói: “Mệt đến mức gần như không thể cử động ngón tay.” Ai nói được câu đó thì biết mệt mỏi là thế nào. Tôi thậm chí còn không nhúc nhích nổi mí mắt. Mí mắt tôi không khép lại hẳn. Mệt đến mức ấy. Ánh sáng ban ngày cũng không thể làm mí mắt tôi khép lại. Tôi chẳng còn sức lực nào để mong muốn ánh sáng ban ngày biến mất và cho mắt mình được nghỉ ngơi.”

Nhưng vấn đề là, và đây chính là điểm cốt lõi mà chủ nghĩa tư bản đã thành công, Gale lại bắt đầu tự hào một cách lệch lạc về khả năng chịu đựng khổ nhọc của mình, và những phần thưởng nhỏ nhoi khiến mọi thứ trở nên xứng đáng với trạng thái suy nhược, kiệt quệ đó.

Mọi thứ cứ tệ dần, nhưng tôi không muốn tiết lộ thêm.

Cùng với thông điệp về hoàn cảnh khốn cùng mà hầu hết người lao động đang phải đối mặt, tôi thích thú với những quan sát giản dị, chân thành, chính xác và vẫn còn đúng cho tới ngày nay về “hệ thống” và kiếp người:

“Những gì bị tra tấn hôm qua là giáo hội hùng mạnh hôm nay và là tôn giáo đang suy tàn ngày mai. Điều đáng trách, điều đáng trách nhất, là những kẻ bị tra tấn hôm qua, hôm nay lại đi tra tấn kẻ khác. Đám người Ireland đến Mỹ năm năm trước và đã xin giấy tờ quốc tịch hôm qua, ngày nay lại là những người ủng hộ nhiệt thành nhất cho tất cả những kẻ hẹp hòi ca ngợi đất nước của Chúa, những kẻ muốn cấm cửa tất cả những ai trên đất Mỹ không chịu kiểm tra xem bố mẹ mình có phải là dân chính gốc trăm phần trăm không.”

Điều đó chắc chắn đúng trong thời đại ngày nay. Và rõ ràng, Traven không phải là người ưa chiến tranh:

“Đã đến lúc tất cả các chính phủ đều tin rằng đàm phán hòa bình và chờ đợi thời cơ thuận lợi là giải pháp bớt tốn kém hơn và có lợi hơn. Bọn du thủ du thực ngồi vào bữa tiệc hòa bình sang trọng. Công nhân, và đám dân thường ở khắp nơi, phải gánh chịu phí tổn — tức là viện phí, chi phí tang lễ, tiền chôn cất đám lính vô danh, và chi phí cho tất cả các bữa tiệc và hội nghị khiến tất cả mọi người trên thế gian, trừ đám chủ điều hành, ai ở đâu thì vẫn ở nguyên đấy. Và tất cả những người dân thường nhỏ nhoi ấy, những người chẳng được lợi lộc gì mà còn phải gánh chịu tất cả những mất mát và cái chết, giờ đây được phép vẫy cờ và khăn tay chào đón những đội quân chiến thắng trở về, khoác lên mình vinh quang và danh tiếng vĩnh cửu.”

Đôi khi, cuộc hành trình trên CON TÀU CHẾT mang đến cảm giác huyền ảo:

“Trước khi lên tàu Yorikke, tôi chưa bao giờ nghĩ tới một thứ như que diêm cháy dở, một mẩu giấy lấm bùn, một chiếc lá rụng, hay một chiếc đinh gỉ sét vô giá trị lại có thể mang theo linh hồn. Tàu Yorikke đã dạy tôi điều ngược lại. Kể từ đó, cuộc sống của tôi trở nên phong phú hơn gấp ngàn lần, ngay cả khi không có xe cộ hay radio. Tôi không bao giờ còn cảm thấy cô đơn nữa. Tôi cảm thấy mình là một phần nhỏ bé của vũ trụ, luôn được bao quanh bởi những phần nhỏ bé khác của vũ trụ; và nếu thiếu phần nào đó, vũ trụ sẽ không trọn vẹn – thực tế là không tồn tại.”

Đây là một cuốn sách u ám nhưng đầy quyền năng, rất đáng đọc, và cho thấy những gì nó phản ánh  vẫn đúng với thời đại ngày nay sau gần trăm năm.

Bài viết tham khảo từ cảm nhận của bạn đọc phương Tây.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *